Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới, mượn hình tượng con hổ sa cơ để nói lên nỗi tủi nhục và khát vọng tự do.
Nội dung bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ
Lời con hổ ở vườn Bách thú
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn (1), ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh (2) rừng thẳm.
Nay sa cơ (3), bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự (4).
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm (5), bóng cả (6), cây già,
Với tiếng gió gào ngàn (7), với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể (8) cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa (9) không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn (10) ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt (11) nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận (12) ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm (13),
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu (14)
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ (15)!
Là nơi giống hầm (16) thiêng ta ngự trị (17)
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn (18) to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
1934
(Theo “Thi nhân Việt Nam”, NXB Văn học, Hà Nội, 1988)
Chú giải trong bài thơ
- Ngạo mạn: kiêu căng, khinh mạn người khác.
- Oai linh (hoặc uy linh): sức mạnh linh thiêng.
- Sa cơ: lâm vào tình cảnh không may.
- Vô tư lự: không lo nghĩ gì.
- Sơn lâm: núi rừng.
- Cả: lớn.
- Ngàn: rừng.
- Chúa tể: kẻ ở ngôi chủ, có quyền lực tối cao.
- Thảo hoa: hoa cỏ, cây cối.
- Giang sơn: sông núi; bờ cõi, đất đai thuộc chủ quyền ai đó.
- Oanh liệt: tiếng tăm lừng lẫy, vang động khắp nơi.
- Uất hận: nỗi căm giận chứa chất trong lòng không được giải tỏa.
- Bí hiểm: chứa đựng những cái rất khó hiểu, khó dò ra, mang nguy cơ tai họa.
- Hoang vu: nơi ây cối mọc tự nhiên như thuở ban sơ.
- Hùng vĩ: lớn lao, mạnh mẽ (thường nói về cảnh vật).
- Hầm: hùm (con hổ).
- Ngự trị: giữ vai trò thống trị, chi phối mọi cái khác.
- Giấc mộng ngàn: mộng tưởng về chốn núi rừng.
Đôi nét về tác giả Thế Lữ và bài thơ “Nhớ rừng”
1. Tác giả Thế Lữ
Tác giả Thế Lữ (1907 – 1989), tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, còn có bút danh là Lê Ta. Ông sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội, quê ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội).
Ông bắt đầu làm thơ, viết văn từ năm 1932. Với hồn thơ dạt dào xúc cảm và đầy lãng mạn, Thế Lữ đã góp phần đổi mới thơ ca dân tộc và là một trong những người có công đầu trong phong trào Thơ mới (1932 – 1945).
Ngoài làm thơ, ông còn viết truyện trinh thám, truyện đường rừng, và một số truyện ngắn. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thế Lữ chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và là một trong những người có công đầu của ngành kịch nói Việt Nam.
2. Cảm nhận về bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ
Bài thơ “Nhớ rừng” là một trong những sáng tác tiêu biểu, đặc sắc nhất của Thế Lữ. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú, tác giả đã thể hiện tâm sự chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt của một tâm hồn lãng mạn. Bài thơ gây được tiếng vang rộng rãi và ít nhiều có tác dụng khơi dậy tình cảm yêu nước, khao khát độc lập, tự do của người dân Việt Nam sống trong cảnh nô lệ khi đó.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng có nhận xét: “Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc bút chiến giữa thơ mới và thơ cũ đang diễn ra hết sức gay gắt. Và sự xuất hiện của Nhớ rừng trên thi đàn đã làm cho cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”.
Bài thơ như một lời nhắn gửi kín đáo, thiết tha về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của tác phầm đó là khao khát được sống tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự liên tưởng tuyệt vời cho cái khát vọng ấy. Toàn bộ cảm hứng lãng mạn của bài thơ được tác giả Thế Lữ dồn vào việc miêu tả tâm trạng của chúa sơn lâm khi rơi vào cảnh ngộ sa cơ lỡ vận.