Chiếc lá cuối cùng (Truyện ngắn của O. Henry)
“Chiếc lá cuối cùng” là truyện ngắn của O. Henry, ngợi ca tình yêu thương và sự hi sinh cao cả giữa những con người nghèo khổ trong xã hội.
“Chiếc lá cuối cùng” của O. Henry
1. Giới thiệu tác phẩm
Truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” có tên tiếng Anh là “The Last Leaf”. Thông qua câu chuyện, O. Henry đã vẽ lên bức tranh nhỏ về hiện thực của nước Mĩ thời bấy giờ. Diễn biến câu chuyện được đảo ngược khi Johnsy bệnh nặng tưởng là đến dần với cái chết nhưng lại vượt qua nguy hiểm; còn cụ Behrman thì đang khỏe mạnh nhưng lại đột ngột qua đời. Sự thay đổi ấy đã đem đến những rung cảm mạnh mẽ và thấm thía cho người đọc.
Chi tiết cụ Behrman vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa gió dữ dội để cứu sống Johnsy được tác giả giấu kín, để nó sẽ được tỏa sáng trong lời kể của Sue với Johnsy ở cuối truyện đã tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”.
Chiếc lá cuối cùng có thể coi là một kiệt tác nghệ thuật, hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc, đó là: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng xuất phát từ tình cảm chân thành trong trái tim của mỗi con người và tạo ra những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.
Câu chuyện này đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa của nhiều nước trên thế giới.
2. Tóm tắt nội dung câu chuyện “Chiếc lá cuối cùng”
Truyện lấy bối cảnh ở khu làng Greenwich thuộc thành phố New York nước Mĩ. Sue và Johnsy là hai nữ họa sĩ trẻ sống trong một khu nhà trọ. Cụ Behrman là một họa sĩ già cũng sống ở đó, cả đời cụ khao khát vẽ được một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được.
Mùa đông năm ấy, Johnsy bị bệnh viêm phổi rất nặng. Bệnh tật khiến cô tuyệt vọng và nghĩ rằng khi chiếc lá cuối cùng trên một cây leo già cỗi ngoài cửa sổ rụng xuống là sẽ là lúc cô lìa đời. Sue vô cùng lo lắng và hết lòng chạy chữa cho bạn nhưng vô ích, Johnsy vẫn bi quan như vậy. Biết được ý nghĩ điên rồ đó của Johnsy, cụ Behrman ban đầu mắng um lên nhưng sau đó lại âm thầm thức suốt đêm mưa gió gió lớn để vẽ chiếc lá trên bờ tường cạnh cửa sổ.
Chiếc lá cuối cùng giống như thật. Nó đã không rụng trong đêm bão lớn khiến Johnsy suy nghĩ lại, cô hi vọng và muốn được sống, được sáng tạo. Johnsy từ cõi chết trở về nhưng cụ Behrman lại chết vì bệnh viêm phổi sau đêm sáng tạo kiệt tác chiếc lá cuối cùng để cứu Johnsy. Sue lặng lẽ đến bên Johnsy báo cho bạn về cái chết của cụ Behrman và bí mật của chiếc lá cuối cùng.
Có thể nói, “Chiếc lá cuối cùng” là một tác phẩm đầy tính nhân văn, thấm đẫm tinh thần nhân đạo và cái nhìn đầy độ lượng, thương cảm, lạc quan của O’ Henry đối với con người và cuộc sống.

3. Đôi nét về tác giả O. Henry
O’Hen-ry (1862 – 1910) là bút danh của William Sydney Porter. Ông là một nhà văn nổi tiếng người Mĩ, từng có thời gian phải sống trong cảnh nghèo khổ, lang thang nhiều nơi ở Mĩ, có lúc bị giam trong tù suốt ba năm.
Từ năm 1901, ông chuyển đến ở hẳn tại thành phố New York và chuyên viết văn. Tác phẩm của ông phần lớn là những truyện ngắn giàu chất thơ và cảm động, thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Các câu chuyện của ông thường được kết cấu hết sức chặt chẽ, hầu như không có chi tiết nào thừa, dựng lên các bức tranh nho nhỏ về một mảng hiện thực của nước Mĩ bằng một ngòi bút đầy sự thương cảm đối với những con người nghèo khổ trong xã hội đương thời.
Tên ông được lấy làm tên giải thưởng văn chương thường niên ở Mĩ dành cho những truyện ngắn xuất sắc nhất. Một số truyện ngắn nổi tiếng của ông có thể kể đến như: “Bắp cải và vua chúa” (1904), “Căn gác xép” (1904), “Món quà của các đạo sĩ (1906), “Hai mươi năm sau” (1906), “Chiếc lá cuối cùng” (1907), v.v…
“Chiếc lá cuối cùng” là một trong số những câu chuyện ngắn hay và nổi tiếng nhất của O’Hen-ry, được sáng tác năm 1907. Truyện cho thấy tình cảm yêu thương giữa con người với con người. Tác giả đã dẫn người đọc đến những kết quả rất bất ngờ: bất ngờ về chiếc lá cuối cùng vẫn đứng vững sau trận mưa to gió lớn, bất ngờ về sự thay đổi trong Johnsy và bất ngờ về hành động cao thượng, đẹp đẽ của người họa sĩ già Behrman.
Đọc tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”
Trong một khu nhỏ phía tây quảng trường Washington (1), phố xá nằm lộn xộn và hòa dần vào trong những dải đất nhỏ gọi là những “biệt khu” (2). Những “biệt khu” này tạo nên những góc, những đường vòng lạ lùng. Một đường phố gặp lại chính đường phố đó một hoặc hai lần. Một nhà nghệ sĩ có lần đã tìm ra một tính chất có phần nào có giá trị của đường phố này. Giả sử một người mang phiếu thu tiền mua màu vẽ, giấy và vải bạt di qua phố này, bỗng thình lình nhận ra chính bản thân mình quay trở lại phố đó, mà chưa thu được một xu nào cả!
Như vậy những nhà nghệ sĩ lang thang dến làng Greenwich (3) kì dị, cổ kính này đề lùng kiếm những cái cửa sổ quay về hướng bắc, những cái hồi nhà thuộc thế kỉ thứ mười tám, những căn phòng sát múi kiều Hà Lan và giá tiền thuê hạ. Thế rồi, họ nhập cảng vào một ít bùn đủ các loại, một hai cái dĩa cũ kĩ dã mòn mang từ Đại lộ Thứ sáu, và họ trở thành một “khu kiều dân” (4) ở đó.
Sue và Johnsy có xưởng vẽ ở tầng trên cùng của một ngôi nhà gạch ba tầng, dáng bè bè. Johnsy là tên thường gọi của Joanna. Một người từ Maine và một người từ California tới. Họ gặp nhau tại bàn ăn bán định xuất trong khách sạn Delmonico ở Phố Thứ tám. Họ có cùng một sở thích về nghệ thuật, về rau xà lách, về ống tay áo ngoài, họ thích hợp với nhau đến nỗi kết quả là một xưởng vẽ chung ra đời.
Hồi đó là vào tháng năm. Đến tháng mười một, một người lạ mặt lạnh lẽo và vô hình, mà các bác sĩ gọi gã là gã Viêm phổi (5), lén đến bên khu “kiều dân”, ngón tay lạnh như băng mó vào nơi này một người, nơi kia một người. Khắp khu phía đông, kẻ tàn phá này bước những bước dài mạnh bạo, đánh gục hàng chục nạn nhân, nhưng bàn chân của hắn bước chậm chạp qua các đường phố ngoằn ngoèo của những “biệt khu” chật hẹp, phủ dầy rêu.
Gã Viêm phổi không có tư cách cao thượng của một hiệp sĩ thời xưa. xưa. Một cô gái bé bỏng, máu đã cạn dần bởi những làn gió tây California khó có thể là con mồi chính đáng đối với một tên già xuẩn ngốc, cổ tay đỏ hồng, hơi thở hổn hển. Tuy vậy, hắn vẫn dánh gục Johnsy và nàng nằm hầu như không còn cử động trên chiếc giường bằng sắt quét sơn; nàng nằm đó, đưa mắt qua những ô cửa nhỏ bé kiểu Hà Lan, nhìn bức tường trống trải của ngôi nhà gạch đối diện.
Một buổi sáng, ông bác sĩ luôn luôn bận rộn mời Sue ra hành lang, cặp lông mày sâu róm màu xám nhíu lại. Ông bác sĩ vừa lắc cho thủy ngân trong cái cặp nhiệt tụt xuống, vừa nói:
– Cô ấy mười phần chỉ sống nổi, chúng ta hãy nói là một thôi. Và một phần đó cũng còn tùy ở cô ta muốn sống hay không. Người nào đã có ý định không muốn sống thì tất cả thuốc men chỉ còn là một thứ vớ vẩn mà thôi. Cô bạn bé nhỏ của cô tin chắc cô ta không thể hồi phục được nữa. Cô ấy có vấn đề gì vương vấn trong dầu không nhỉ?
Sue trả lời:
– Cô ấy… cô ấy muốn một ngày nào đó sẽ vẽ một bức tranh về vịnh Naples (6).
– Vẽ à! Hừ! Cô ấy có điều gì đáng quan tâm gấp đôi thế không, một người đàn ông chẳng hạn?
– Một người đàn ông? – Sue thốt lên, bật ra như một tiếng đàn vừa buông cung – Một người đàn ông liệu có đáng không, nhưng không, thưa bác sĩ, không có cái gì thuộc loại ấy cả.
– Hừm , thế là thiếu sót đấy. Tôi sẽ vận dụng tất cả những khả năng của khoa học mà tôi đã cố gắng thu thập được. Nhưng khi nào bệnh nhân của tôi dã bắt đầu tính xem có bao nhiêu cỗ xe dự đám tang của cô ấy, thì tôi phải trừ đi năm mươi phần trăm công hiệu của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho bạn cô quan tâm đến thời trang mới về mùa đông của phụ nữ, những kiểu ống tay áo chẳng hạn, thì tôi có thể hứa với cô: trong mười phần có thể sống được hai, chứ không phải một đâu.
Sau khi bác sĩ ra về. Sue vào xưởng vẽ, khóc ướt mủn chiếc khăn giấy Nhật Bản. Rồi nàng mang bảng vẽ sang phòng Johnsy và huýt sáo một điệu hài hước.
Johnsy nằm im, hầu như không làm cái chăn gợn lên một chút nào, mặt quay về phía cửa sổ. Sue ngừng huýt sáo, tưởng Johnsy đang ngủ.
Sue sắp đặt bảng vẽ và bắt đầu vẽ bằng bút sắt và mực đen minh họa cho một truyện in trong tạp chí. Những họa sĩ trẻ phải lát con đường đi vào Nghệ thuật của họ bằng những bức minh họa truyện in trong tạp chí, những truyện mà những nhà văn trẻ viết để lát con đường của họ đi vào Văn học.
Khi đang vẽ phác chiếc quần phong nhã đề biểu diễn cưỡi ngựa và chiếc kính một mắt cho một nhân vật, – một gã cao bồi Ai-đơ-hô, Sue nghe thấy một tiếng khe khẽ lặp lại nhiều lần. Nàng bước nhanh đến bên giường Johnsy.
Mắt Johnsy mở to. Nàng đang nhìn ra phía ngoài cửa sổ và đang đếm ngược lại:
“Mười hai”, và một lát sau “mười một”, và “mười”, “chín”, rồi liên tiếp “tám”, “bảy”.
Sue nhìn ra ngoài cửa sổ và lo lắng. Có gì mà đếm thế nhỉ? Chỉ có cái sân trơ trọi, tẻ ngắt, và bức tường trống trải của ngôi nhà gạch cách đó sáu thước. Một cây leo già cỗi, tàn héo, cạn nhựa sống, rễ dầy những bướu, bám đến lưng chừng bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu đã rút đi những chiếc lá và cây leo giờ chỉ còn lại bộ xương khẳng khiu, hầu như trơ trụi, bám vào bức tường đổ nát.
Sue hỏi:
– Cái gì thế, em thân yêu?
– Sáu, Johnsy nói, lời của nàng chỉ là một tiếng thì thầm. – Bây giờ chúng rụng nhanh hơn. Ba ngày trước, vẫn còn đến một trăm. Lúc đêm, em thấy nhức đầu. Giờ thì dễ rồi. Lại một chiếc nữa. Giờ chỉ còn lại năm.
– Năm cái gì cơ em? Kể cho Sudie (7) của em nghe đi nào.
– Những chiếc lá. Trên cây leo. Khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì em chắc chắn cũng sẽ lìa đời. Em đã biết thế từ ba ngày trước. Bác sĩ không nói gì với chi ư?
– Trời ơi, chị chưa bao giờ nghe thấy một điều vô lí như thế. – Sue than vãn, hết sức trách móc. – Những chiếc lá của cây leo già cỗi đó có quan hệ gì đến việc sức khỏe của em đang khá dần lên đâu. Trước đây em thích cây leo đó lắm kia mà! Em hư lắm. Đừng ngớ ngẩn như thế nữa. Ờ này, sáng nay bác sĩ bảo chị là sức khỏe của em sẽ hồi phục rất nhanh thôi. Để chị nhớ lại chính xác xem bác sĩ đã bảo thế nào đã. Bác sĩ nói mười phần thì có chín phần chắc chắn đấy. Đúng thế, điều này cũng gần chắc chắn như chúng ta ngồi trên tàu điện hay đi bộ qua một tòa nhà mới đang xây ở New York này Giờ em hãy cố ăn một ít nước xúp nhé. Và để Sue-di của em vẽ đưa cho nhà xuất bản để lấy tiền mua rượu port (8) cho đứa em nhỏ đang ốm của cô ấy và mua sườn lợn cho chính cái cô tham ăn ấy nữa.
Chị không cần mua thêm rượu làm gì. – Johnsy nói, mắt vẫn đăm đăm nhìn ra phía ngoài cửa sổ. – Lại một chiếc lá nữa rơi. Không, em không cần nước xúp đâu. Giờ chỉ còn có bốn. Em muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng lìa cành trước khi trời tối. Rồi thì em cũng sẽ ra đi.
Johnsy, em thân yêu, – Sue nói, cúi xuống phía Johnsy, – em có hứa với chị là sẽ nhắm mắt lại, không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa cho đến khi chị vẽ xong không nào? Mai chị đã phải giao những bức vẽ này. Chị cần ánh sáng để vẽ, nếu em không nghe lời, chị đành phải hạ rèm xuống đấy.
Johnsy lạnh nhạt hỏi:
– Chị không thể vẽ ở buồng khác được à?
– Chị thích ở đây, bên cạnh em. Hơn nữa, chị không muốn em tiếp tục ngắm những chiếc lá vớ vẩn kia.
– Khi nào vẽ xong, chị bảo em ngay nhé. – Johnsy nói, mắt nhắm lại, nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ. – Bởi vì em muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi. Chờ đợi làm em chán lắm rồi, nghĩ ngợi cùng làm em chán lắm rồi, em muốn buông tay ra khỏi tất cả những thứ em còn đang nắm và rồi lướt xuống, lướt xuống hệt như một trong những chiếc lá mệt mỏi, đáng thương đó.
Cố ngủ đi, – Sue nói. – Chị phải đi mời cụ Behrman lên làm mẫu cho chị vẽ một người thợ mỏ già khổ hạnh. Chị sẽ không đi lâu quá một phút đâu. Đừng có động đậy, chờ chị quay lại nhé.

Cụ Behrman là một họa sĩ ở tầng dưới cùng, dưới tầng của họ. Cụ đã ngoài sáu mươi và có một bộ râu như Moses (9) của Michelangelo (10) loăn xoăn trừ cái đầu như đầu thần satyr (11) lòa xòa xuống cái thân hình như thân hình một tiểu yêu (11). Behrman là một người thất bại trong nghệ thuật. Cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị thần của mình (12). Cụ luôn luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu cả. Bao năm nay cụ chẳng vẽ được gì, ngoài việc thỉnh thoảng bôi bác một bức cho ngành buôn bán hay quảng cáo. Cụ kiếm được chút ít bằng cách ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ cùng ở xóm đó, không đủ tiền thuê nổi một người làm mẫu chuyên nghiệp. Cụ uống rượu nặng quá độ và vẫn nói về các tác phẩm kiệt xuất sắp tới của mình. Còn thì ngoài ra cụ là một ông già nhỏ nhắn dữ tợn, hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kỳ ai, và tự coi mình là một con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên.
Sue tìm thấy cụ Behrman sặc sụa mùi rượu dâu loại nặng trong gian buồng tối om om của cụ ở tầng dưới. Trên giá vẽ ở góc buồng là một tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đợi mãi nét vẽ đầu tiên của bức tranh kiệt tác. Cô kể cho cụ nghe ý nghĩ kỳ quặc của Johnsy và nói cho cụ biết cô lo lắng như thế nào về Johnsy; cô ấy yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá, quả thật, rất có thể sẽ bay đi mất khi mối ràng buộc mong manh giữa cô ấy ở trên trần thế này suy yếu.
Cụ Behrman cặp mắt đỏ ngàu, nước mắt chảy ròng ròng, hét lên sự khinh bỉ và nhạo báng của mình đối với những chuyện tưởng tượng ngốc nghếch ấy. Cụ quát to.
– Sao! Trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết chỉ vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư? Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như thế cả. Không, tôi sẽ không ngồi làm mẫu cho cô vẽ cái lão già ngu xuẩn ngớ ngẩn của cô đâu. Tại sao cô lại để cho những chuyện vớ vẩn ấy chui vào đầu óc cô ta? Chà, tội nghiệp cô bé Johnsy.
– Em nó ốm nặng và yếu lắm, – Sue nói. – Cơn sốt đã làm đầu óc nó đâm ra bệnh hoạn, đầy những ý nghĩ kỳ quái. Thôi được, cụ Behrman ạ, cụ không muốn ngồi làm mẫu cho cháu thì thôi. Nhưng cháu thấy cụ thật là một ông già kinh khủng, sao mà lắm lời, lắm điều thế.
– Cô thật đúng là đàn bà! – cụ Behrman hét lên. – Ai bảo là tôi không muốn ngồi làm mẫu? Đi, tôi lên cùng với cô. Tôi đã nói suốt nửa tiếng đồng hồ rằng tôi sẵn sàng ngồi làm mẫu kia mà. Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Johnsy nằm. Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế.
Khi hai người lên tới gác trên thì Johnsy đang ngủ. Sue kéo tấm mành mành xuống che kín cửa sổ và ra hiệu cho cụ Behrman sang buồng bên cạnh. Sang đến nơi, họ ngoái ra ngoài cửa sổ, sợ sệt nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau, không nói mất một lúc. Một cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng, pha lẫn tuyết đang đổ xuống. Cụ Behrman mặc chiếc áo sơ mi cũ màu xanh, ngồi làm một tay thợ mỏ già trên cái ấm đun nước lật úp giả làm một tảng đá.
Sáng hôm sau Sue tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một giờ thì thấy Johnsy đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu xanh đã kéo xuống.
– Kéo nó lên, em muốn xem, – cô thều thào ra lệnh.
Sue buồn bã làm theo.
Nhưng kìa! Sau cơn mưa to gió lớn, một chiếc lá vẫn chịu đựng nổi qua cả một đêm trường, và in rõ rằng trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng. Chỗ gần cuống lá còn xanh thẫm, nhưng đường viền răng cưa xung quanh đã nhuốm màu vàng của sự vàng úa và của cái chết, chiếc lá dũng cảm bám vào một cành cách mặt đất chừng sáu thước.
Johnsy nói
– Chiếc lá cuối cùng. Em nghĩ là thế nào đêm qua nó cũng rụng. Em đã nghe thấy tiếng gió thổi. Hôm nay, nó nhất định sẽ lìa cành và em cũng lìa đời.
– Em thân yêu, em yêu dấu! – Sue nói, nghiêng khuôn mặt héo hon xuống mặt gối. – Nếu em không nghĩ tới bản thân mình nữa thì cũng nên nghĩ tới chị. Chị biết làm thế nào bây giờ?
Johnsy không trả lời. Cái cô đơn nhất trên thế gian là một linh hồn đã sẵn sàng bắt đầu chuyến đi xa và huyền bí. Cái ý nghĩ lạ lùng của Johnsy hình như xâm chiếm lấy nàng mỗi lúc một mạnh mẽ thêm trong khi mới ràng buộc giữa nàng với tình bạn, với thế gian lần lượt được gỡ ra từng mối một.
Ngày cứ thế trôi dần và ngay cả qua ánh hoàng hôn, họ nhìn thấy chiếc lá cô đơn vẫn bám vào cuống lá nằm sát trên tường. Và rồi đêm đến, luồng gió bấc lại thổi, trong lúc mưa vẫn đập vào cửa số, rơi lộp độp từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan xuống.
Khi trời đã sáng, Johnsy, cô gái tàn nhẫn, đòi Sue phải kéo rèm lên.
Chiếc lá vẫn còn đó!
Johnsy nằm ngắm chiếc lá một lúc lâu. Rồi nàng gọi Sue, lúc này đang khuấy nước xúp gà cho nàng trên cái lò hơi. Nàng nói:
– Em là một đứa con gái tồi tệ. Có một cái gì đó đã giữ lại chiếc lá cuối cùng này trên cành để chứng tỏ cho em thấy em xấu xa biết bao. Muốn chết, đó là một tội lỗi. Bây giờ, chị mang cho em một ít nước xúp, và một ít sữa pha chút rượu port và… không, chị đưa cho em cái gương con trước đã. Rồi đặt mấy cái gối quanh người em để em ngồi dậy xem chị nấu nướng.
Một giờ sau, Johnsy nói:
– Sudie ạ, một ngày nào đó em hi vọng được vẽ vịnh Naples .
Buổi chiều, bác sĩ tới, và khi ông ta ra về, Sue lấy lí do để theo ông ra hành lang.
Bác sĩ nắm lấy bàn tay run run của Sue và nói:
– Được năm phần sống rồi. Nếu chăm sóc chu đáo, cô sẽ thắng. Giờ thì tôi phải thăm một ca khác ở tầng dưới. Tên ông ấy là Behrman, tôi đoán là một nghệ sĩ gì đó. Cũng viêm phôi. Ông ta già yếu, mà cơn bệnh lại ác liệt. Không hi vọng đâu, nhưng hôm nay sẽ đưa đi bệnh viện, thuận tiện hơn.
Hôm sau, Bác sĩ bảo Sue:
– Cô ấy đã thoát khỏi nguy hiểm rồi. Cô đã thắng lợi. Bây giờ chỉ cần bồi dưỡng và chăm sóc, thế thôi.
Chiều hôm đó, Sue đến bên giường, Johnsy đang nằm vui vẻ đan một cái khăn quàng len để phủ lên vai, màu xanh ngắt và chẳng dùng làm gì được. Sue đưa một tay ôm Johnsy cùng những cái gối và tất cả những thứ đó rồi nói:
– Chị có chuyện này kể cho em nghe nhé, đứa em bé bỏng của chị. Hôm nay bác Behrman đã mất ở bệnh viện vì viêm phồi. Bác ấy ốm mới có hai ngày, sáng hôm đầu tiên, người gác cổng tìm thấy bác Behrman tại phòng riêng ở tầng dưới, đau đớn chẳng ai chăm sóc. Giày và quần áo ướt sũng, lạnh như băng. Mọi người không hình dung được bác Behrman đã ở đâu trong một đêm khủng khiếp như thể. Rồi họ tìm thấy một cái đèn bão, vẫn còn leo lét, một cái thang đã bị kéo ra khỏi chỗ dựa cũ, một vài chiếc bút vẽ vứt bừa bãi, một bảng pha màu có màu xanh, màu vàng trộn với nhau, và này em thân yêu, em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ mà xem chiếc lá cuối cùng ở trên tường. Em đã không tự hỏi sao chiếc lá lại không bao giờ rung rinh, không bao giờ chuyền động mỗi khi có gió thổi ư? Này, em yêu quý, đó là kiệt tác của bác Behrman: bác ấy đã vẽ nó ở đấy vào đúng cái đêm chiếc lá cuối cùng lìa cành.
Câu chuyện “Chiếc lá cuối cùng”
– Truyện ngắn O. Henry –
Chú thích truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O. Henry
- Washington: tên một vị tổng thống Mĩ được dùng đặt cho một quảng trường tại thành phố New York.
- Biệt khu: một khu vực ở riêng ra.
- Làng Greenwich: tên một khu ở thành phố New York, nơi cư trú của những nghệ sĩ nghèo.
- Khu kiểu dân: khu cư trú của những người dân nước ngoài.
- Gã Viêm phổi: cách nhân hóa của tác giả, gọi một chứng bệnh thành một nhân vật ác độc gây tai họa.
- Vịnh Naples: tên một vịnh đẹp nổi tiếng ở bờ biển nước Italia.
- Sudie: tên gọi thân mật thay cho Sue.
- Port: một thứ rượu vang.
- Moise: nhân vật lịch sử Do Thái.
- Michelangelo: nghệ sĩ nổi tiếng Italia (1475 – 1564), tác giả pho tượng Moses.
- Satyr: một loại thần trong thần thoại Hy Lạp, đầu tóc bù xù.
- Gấu áo vị thần của mình: cách nói văn vẻ. Tác ý nói ông già Behrman chưa có tác phẩm nào được công nhận là có giá trị nghệ thuật.