Truyện cổ dân gian Việt Nam
Truyện cổ dân gian Việt Nam là những câu chuyện được lưu truyền bằng miệng từ đời này qua đời khác, phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống.
Truyện cổ dân gian Việt Nam là gì?
Truyện cổ dân gian Việt Nam là những câu chuyện được lưu truyền bằng miệng từ đời này qua đời khác, phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống.
Cũng có một số văn bản gọi truyện cổ dân gian là “truyện đời xưa”, nhưng danh từ “truyện đời xưa” trùng với cách gọi “truyện cổ tích” – một thể loại nhỏ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam nói chung.
Các thể loại truyện cổ dân gian Việt Nam
Truyện cổ dân gian bao gồm nhiều các thể loại khác nhau như: truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, v.v… và hầu hết đều kể bằng văn xuôi.
Thần thoại là loại truyện cổ dân gian xuất hiện sớm nhất, phần lớn ra đời trong thời kỳ công xã nguyên thủy, trong đó đại bộ phận các nhân vật đều là các vị thần. Thần thoại chủ yếu nhằm phản ánh cuộc đấu tranh của con người chế ngự thiên nhiên. (Ví dụ: “Thần Trụ Trời”, “Chử Lầu”, v.v…).
Truyện truyền thuyết nối tiếp truyện thần thoại và ít nhiều đã chứa đựng yếu tố lịch sử, chẳng hạn truyền thuyết An Dương Vương.
Truyện cổ tích (hay còn gọi là truyện đời xưa) chủ yếu ra đời khi xã hội đã có giai cấp. Cho nên nội dung chính của truyện cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh xã hội về mọi phương diện, phản ánh mọi mặt sinh hoạt của nhân dân. Tuy vẫn còn nhiều yếu tố hoang đường, nhưng nhân vật chính là người. Nó chiếm một số lượng nhiều nhất trong kho tàng truyện dân gian. (Ví dụ: “Tấm Cám”, truyện “Cây tre trăm đốt”, v.v…).
Truyện cười và truyện ngụ ngôn là hai loại truyện dân gian đặc biệt. Truyện cười là những truyện trong đó có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười để mua vui nhằm mục đích phê phán những thói hư, tật xấu trong nhân dân, hay đả kích một cách sâu cay tính chất bóc lột, thói xảo trá và sự thối nát của giai cấp thống trị cùng bè lũ tay sai đắc lực của chúng như quan lại, cường hào gian ác.
Truyện ngụ ngôn thường mượn chuyện sự vật (con vật, cây cối, hoa cỏ, v.v…) để nói chuyện loài người. Thông qua sinh hoạt của các loài vật, truyện ngụ ngôn thường đem lại những bài học về luân lý, đạo đức rất sinh động, sâu sắc. (Ví dụ: “Đẽo cày giữa đường”, v.v…).
Nội dung truyện cổ dân gian Việt Nam
Nội dung của truyện cổ dân gian Việt Nam rất phong phú, phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống dân tộc ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, kể cả những thời kỳ mà ngày nay chúng ta không giữ được bao nhiêu tài liệu đích xác nữa. Tổ tiên của chúng ta đã gửi gắm vào đấy những cảm nghĩ, nguyện vọng và ý chí của họ, những quan niệm của họ về thế giới và cuộc sống của xã hội loài người.
1. Truyện cổ dân gian phản ánh quan niệm về thế giới của người xưa
Người xưa quan niệm về thế giới một cách đơn giản và cụ thể. Để tạo ra vũ trụ, thần Trụ Trời, thần Mặt Trăng, thần Mặt Trời, v.v… cũng phải lao động như người. Thần Núi, thần Đất, thần Sông, thần Nước, v.v… đều gần gũi với con người và giúp con người đấu tranh chống lại thiên tai.
Ví dụ: Sơn Tinh cùng với con người chống Thủy Tinh – vị thần tượng trưng cho sức phá hoại của bão lụt; thần Mưa đi hút nước ở sông, ở biển để tưới ruộng đồng cho người cày cấy.
Mỗi thần đều có chức vụ riêng của mình. Các thần cũng có nhược điểm như người, và có khi còn bị con người đánh như thần Sét, hay bị kiện như thần Mưa.
2. Chứa đựng yếu tố lịch sử và nói lên lòng yêu nước
Truyện cổ dân gian tuy có nhiều yếu tố hoang đường, nhưng cũng có quan hệ ít nhiều với lịch sử và nói lên lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta.
Các câu chuyện như “Thánh Gióng”, “An Dương Vương”, “Đầm nhất dạ”, v.v… đều là những truyện có dính dáng đến những chặng đường lịch sử nhất định. Nhiều nhân vật truyện cổ lặp lại có quan hệ mật thiết với nhân vật lịch sử. Chẳng hạn An Dương Vương thông gia với Triệu Đà (An Dương Vương là nhân vật có thật trong lịch sử).
Điều quan trọng là nhiều câu chuyện như vậy đã nói lên lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo về nền độc lập của dân tộc.
3. Truyện cổ dân gian Việt Nam có tính chất phê phán sâu sắc
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử đấu tranh liên tục. Bên cạnh những cuộc đấu tranh với thiên nhiên, còn có những cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị, khi xã hội đã phân chia giai cấp.
Tinh thần phản phong của nhân dân ta được thể hiện qua nhiều câu chuyện như “Cây tre trăm đốt”, “Sọ Dừa”, “Tấm Cám”, “Trạng Quỳnh”, v.v… Từ những vua quan hung tàn hay những địa chủ, cường hào gian ác, cho đến những tầng lớp khác như lang băm, phù thủy, thầy bói, sư, tiểu, tiểu phá giới, hủ nho, v.v… đều bị người dân lao động đưa vào trong truyện, xây dựng thành những nhân vật tiêu biểu, bị phê phán hay đả kích một cách sâu cay.
Thái độ của nhân dân rất công bằng, thích đáng. Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, những vua sáng, tôi hiền, những viên quan thanh liêm đều được ca ngợi và ngay trong nội bộ nhân dân, những tính xấu như nói dối, tham lam, khoe khoang, lừa đảo, v.v… cũng bị quần chúng châm biếm với mục đích giáo dục. Những truyện như “Lợn cưới áo mới”, “Tam đại con gà”, v.v… đều có ý nghĩa như vậy.
Trời, Phật trong các câu chuyện cổ dân gian thường tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ, đứng về phía chính nghĩa để thắng gian tà.
4. Phản ánh tâm tư, ước vọng của nhân dân ta trong cuộc sống
Trong cuộc đấu tranh lâu dài cho hạnh phúc của mình, tổ tiên ta đã gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng họ không hề bi quan, mà vẫn ước mơ có những sáng tạo phi thường. Có những hạt lúa thần to như cái đấu, đến mùa tự nó lăn về nhà không phải gặt. Sơn Tinh có quyển sách ước [1], Thạch Sanh có niêu cơm thần thết quân tướng mười tám nước ăn mà không hết. Người ta cũng ước mơ có ngựa sắt phun lửa, có nỏ thần để giết giặc; người ta cũng ước mơ có ngựa sắt phun lửa, có nỏ thần để giết giặc; người ta lại cũng ước mơ khi già lột xác không chết, để trở lại vườn Din Giang Ca (trong truyện “Chủ Lầu”) sống một cuộc đời hạnh phúc…
Ý nghĩa những truyện đó, nói theo Goocki “không ngoài lòng mong mỏi của người lao động thời xưa muốn làm việc cho được nhẹ nhàng hơn, sản xuất được nhiều hơn, chống với kẻ thù hai chân và bốn chân có hiệu quả hơn” [2]. Và những ước mơ của tổ tiên ta xưa nay đi mây về gió, như nỏ thần giết giặc thì ngày nay đã thành sự thật.
Nhìn chung truyện cổ dân gian đã đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống thời xưa và thể hiện được những quan điểm tiến bộ của quần chúng lao động.
Chú thích:
- Theo một số bản kể khác, Sơn Tinh có tên là Kỳ Mạng. Kỳ Mạng có ơn cứu sống con của Long Quân nên được Long Quân tặng cho một quyển sách ước.
- Điễn văn đọc ở Hội nghị các nhà văn Xô Viết năm 1934.
Nghệ thuật truyện cổ dân gian
Nghệ thuật truyện cổ dân gian có nhiều điểm đáng lưu ý. Phần lớn các truyện đều được xây dựng theo trình tự thời gian; việc xảy ra trước, kể trước; việc xảy ra sau, kể sau. Các sự kiện, chi tiết trong truyện được chọn lọc, bố cục mạch lạc, chặt chẽ. Cách bố cục truyện như vậy dễ nhớ, dễ lưu truyền.
Trong truyện cổ dân gian Việt Nam, trí tưởng tượng của nhân dân rất phong phú. Nhờ trí tưởng tượng đó mà nhiều truyện luôn có sức hấp dẫn lớn
Những yếu tố tưởng tượng nhiều khi có tính chất hoang đường như bụt, tiên, thần, gậy thần, gươm thần,… phản ánh lòng mong muốn, ước vọng của người xưa, và đó cũng là một phương pháo để xây dựng truyện cổ dân gian.
Mỗi loại nhỏ trong truyện cổ dân gian đều có đặc trưng nghệ thuật của nó. Chẳng hạn đối với thần thoại, thì cách xây dựng những hình tượng kỳ diệu hay cách nhân hóa thường được sử dụng nhiều hơn. Những nhân vật trong thần thoại thường có yếu tố kỳ ảo, ví dụ: Thần Biển, Thần Trụ Trời. Có những hình tượng được cấu tạo để biểu hiện tính chất hoang đường: cái thở của thần Biển, sức mạnh của thần Trụ Trời. Trái lại, nhân vật trong truyện cổ tích thì lại gần chúng ta hơn tuy cũng có ít nhiều yếu tố kỳ ảo. Ví dụ nhân vật Tấm trong truyện “Tấm Cám” hay chàng trai nghèo trong truyện “Cây tre trăm đốt” được Bụt truyền cho phép thần.
Riêng đối với truyện cười thì tính chất cường điệu và phóng đại được chú trọng hơn. Những nhân vật như anh hà tiện hay anh nói khoác ở đây không phải là những người thường, mà là hạng người đặc biệt: hà tiện quá chừng, nói khoác quá chừng.
Trong truyện ngụ ngôn, ý nghĩa so sánh và nói bóng đòi hỏi một nghệ thuật có khả năng diễn đạt một cách kín đáo, tế nhị và sâu sắc hơn. Ví dụ, truyện “Đẽo cày giữa đường”, “Mười voi không được bát nước xáo”, v.v…
Truyện cổ dân gian Việt Nam còn xây dựng được nhiều hình tượng đẹp, chẳng hạn như: ngựa sắt Phù Đổng, hạt ngọc Mị Châu, v.v…
Trừ một số thần thoại và truyền thuyết, hầu hết truyện dân gian đều mang tính chất phiếm chỉ, tên người tên đất trong truyện không cần phải chính xác. Câu chuyện dù có nhiều chi tiết cũng thường được cấu tạo theo trật tự thời gian, chính vì vậy nó mới thích hợp với việc truyền miệng.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của các câu chuyện cổ dân gian Việt Nam đó là phần lớn đều được sáng tác bởi các tác giả khuyết danh thuộc tầng lớp bình dân, vì thế nhiều câu chuyện chứa đựng nội dung thô tục, thậm chí kinh dị và bạo lực quá mức. Hơn nữa, với tính chất truyền miệng khiến cho nội dung của nhiều câu chuyện không được đồng nhất, tạo ra nhiều dị bản khác nhau.
Kết luận
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cổ dân gian chiếm một vị trí rất quan trọng và vô cùng phong phú. Nó phản ánh nhiều mặt của cuộc sống vật chất và tinh thần, về tâm tư và ước vọng của cha ông ta thời xưa, đồng thời phản ngợi ca tinh thần đấu tranh bảo vệ đất nước của nhân dân ta thuở trước.