Tuyển tập Nam Cao - Quái dị
Năm ấy mất mùa. Lúa làng xấu lắm. Chúng tôi gặt ruộng nhà xong, mới đi gặt thuê được mỗi người vài ba buổi mà lúa làng đã vãn. Chúng tôi bàn nhau ra Đông gặt.
Bọn chúng tôi có bốn người. Trong số ấy, có ông nhiêu Tiêm đã đi gặt xa nhiều lắm; chẳng một xó nào mà ông không biết. Ông đã từng gặt ở những nơi lúa phải mò, ăn cơm phải đứng dưới ruộng, nước lên đến thắt lưng, mâm cơm đặt trên bốn cái cọc cắm ngay giữa ruộng. Trên thì nắng đốt đầu, dưới nước nóng đến làm da phải bỏng, người thợ gặt buông cái hái ra một cái là vơ lấy đũa, bụng thì đói mà cơm với thịt kho cũng không sao nuốt được; chỉ uống, uống không biết chán. Được cái công cao lắm. Cũng có nơi, công đã chẳng lấy gì làm cao, mà ăn uống lại kham khổ quá. Canh riêu đã không có thì thôi. Đến tương, mắm cũng không có nốt. Cơm, toàn một thứ gạo cuống rơm đã bốc hơi. Cái ăn, độc một thứ cà nén; chạt vào những muối; ăn mặn như thợ đường bể cũng chỉ một quả là đủ bữa. Hạng mình thì chưa đặt vào đầu lưỡi, vị đắng đã bắt nhăn mặt vào. Về cái tích cà này, ông nhiêu kể lại một chuyện buồn cười lắm. Mùa ấy, ông cũng đi gặt ở mạn Đông, với mấy anh em nữa, toàn người làng cả. Họ gặt cho một nhà cũng khá giàu, mà có vẻ quí người. Trưa đến, quẩy lúa về, chủ nhà mời quan viên thợ gặt ngồi lên cái giường giữa trước bàn thờ để nghỉ ngơi cho nó mát rồi xơi cơm. Quan viên khấp khởi mừng thầm. Ngồi như vậy, thế nào ăn chẳng khá. Họ đã nghĩ đến riêu mè, thịt lợn kho, hay ít ra thì cũng được bát canh bí xào nấu với cua để húp cho mát ruột. Nhưng quan viên nhầm cả. Mâm cơm bưng lên toàn một thứ cà, cái thứ cà to bằng một bát con, thâm sịt và mặn như “cô” muối vào. Anh nào muốn sắt ruột lại thì cứ ăn! Ấy thế mà quan viên ăn rất nhiều. Chính cô dâu nhà chủ, có lẽ đã quen ăn mặn lắm, mà cũng phải chịu bọn thợ gặt này là ăn mặn. Một bữa ăn, cô phải lấy thêm cà năm, sáu lượt. Cứ vừa đem một đĩa lên, đã lại thấy họ gào đem đĩa nữa. Sau cùng, thấy đĩa thì không xuể, cô xúc luôn cho họ một bát tàu to thật đầy. Chỉ có bốn người ăn mà vại cà vơi đi…Chiều hôm ấy, thấy cô con dâu ra đồng đội lúa, ông nhiêu Tiêm hỏi: “Cô ơi cô! Tôi hỏi thế này khí không phải. Cô đã lấy nước cho các cụ chưa?”. Người con dâu ngơ ngác. Cô không hiểu vì ý gì mà người ta hỏi thế. Hỏi họ thì họ chỉ cười khúc khích. Cô ngờ ngợ. Về nhà cô đem chuyện ấy khoe với chồng. Chồng cô không hiểu nốt. Y khoe với bố. Ông bố có học được ít chữ nho thì phải. Người có chữ như thâm thúy. Ông nghĩ ngợi. Ông vào nhà, cụ soát lại bàn thờ ông vải. Khi ông mở bốn cái đài, ông thấy đài nào cũng đầy lên những cà. Cho biết bọn thợ gặt này cũng thâm! Những kẻ đã vác cái đòn càn đi ăn cơm của người tứ xứ giở mặt nào cũng được, không chịu kém cạnh ai nước gì. Ông nhiêu vẫn bảo bọn đàn em chúng tôi như vậy. Có lần ông đã gặt thuê cả cho một bọn cướp lúa, giữa ban đêm xách liềm hái sang cánh đồng làng khác, mà vẫn giữ được cái đầu đem về nhà. Ông xã Mích với chú cu Xiêng thì cũng chỉ mới đi ít vậy thôi. Thường thường ở nhà họ cũng không thiếu việc làm. Bởi vậy chỉ thỉnh thoảng có vui anh vui em họ mới đi một vụ cho nó biết. Duy có tôi, mới xách hái, vác đòn càn đi gặt xa lần này là một.
Đen tôi quá! Ông nhiêu Tiêm bảo: ông đi gặt thuê kể đã nhiều mà chưa bao giờ khổ thế này. Chúng tôi cơm đùm cơm nắm đi luôn bốn năm hôm giời mà chẳng gặp ma nào đón. Thì ra lúa mạn Đông năm nay chín sớm. Phần nhiều người ta gặt rồi. Chiều ngày thứ năm, chúng tôi đứng lại một làng xác xơ và có vẻ nghèo nàn. Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu vườn rộng thì có rộng, nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngồng, dĩ chí đến cây khoai, cây ráy cũng không lên được. Người xấu xí và rách rưới. Cái số trẻ con bụng ỏng, mắt toét ngoài đường sẵn lắm. Đàn bà móc cua, mò ốc. Đàn ông đi bắt chuột, riu tép hay xúc dậm. Chỉ vào một hàng nước của họ cũng biết rằng họ khổ. Xôi thì xôi đậu mắt cua. Bánh đúc hột sặc mùi vôi. Giá có bát canh bún cua thì ba phần rau mới được một phần bún. Mà nào có ra hồn bún! Những sợi to bằng cái đũa màu xam xám chứ không trắng hẳn. Ăn vào rắn mà lại chua. Ấy thế mà đã gọi là danh giá lắm. Hàng nào cừ mới có. Còn thì chỉ cái giống bánh sắn, bánh khoai hoặc cái bánh rán làm bằng cơm nguội là nhiều lắm. Ngon hay không, chẳng cần phải hỏi. Quí hồ thật to…
Chúng tôi vào một cái hàng tồi tàn ấy, uống bốn người mới hết một trình nước vối. Bà hàng hỏi:
– Chư ông đi gặt hẳn?
Anh cu Xiêng mau mồm miệng đáp:
Vâng, chúng cháu xem có ai thuê thì gặt. Ở ta đây đã gặt xong chưa cụ?
Xong từ bao giờ rồi. Chúng tôi ít ruộng lắm.
Muốn tỏ mình thông thuộc, ông nhiêu Tiêm tắc lưỡi:
– Ruộng ở đây còn hiếm hơn ở mình. Gặt có già cơ chỉ dăm ngày là xong.
Rít một hơi thuốc lào rồi ông ngẩng mặt lên, vừa thở khói ra vừa cau mặt bảo:
– Anh em mình chết dở! Đi muộn quá. Đến cũng phải quay giở về.
Một người đàn ông trẻ tuổi, mắt hấp hem, cố tách đôi mi mọng đỏ ra nhìn chúng tôi, khìn khịt mũi mấy cái rồi bảo:
Tôi bảo nhé? Chỗ này thì còn nhiều lúa chưa gặt lắm. Các ông có dám đến thì tôi mách. Ông nhiêu Tiêm cười khểnh:
Hừ! Chúng tôi thì âm phủ chúng tôi cũng dám đến. Cứ có người thuê là được.
Người thuê thì khối. Già nửa làng chưa gặt được.
Ở đâu vậy, bác?
Các ông có dám đến không đã?
Tôi đã bảo: hùm tinh chúng tôi cũng không biết sợ. Có phải bên Mai không nào?
Ừ, bên Mai.
Tưởng gì!
Tiếng ông kéo dài nó ra để tỏ vẻ khinh thường và chế nhạo. Mũi anh kia khìn khịt một hồi lâu. Bây giờ tôi mới hiểu thế là anh ta cười. Bà hàng bảo:
– Ông nói thế chứ tôi thách ông dám sang gặt bên Mai.
Cụ không phải thách. Chúng tôi đi ngay giờ. Làm cái thằng đàn ông, có thế mà đã sợ, không bõ vợ nó cười vào mặt cho. Chẳng nói giấu gì các cụ ở ta đây, các cụ nhiều tiền lắm của nên sợ chết, chứ người làng chúng cháu nghèo khổ nên chẳng coi cái chết ra mùi gì.
Câu nói rõ ràng có ý khích bác. Ông này đến làng người ta, mà nói miệt người ta quá. Bà hàng sa mặt xuống. Bà trả miếng:
Thì đấy! Không sợ thì cứ sang mà gặt. Người ta đang cần thợ gặt. Chỉ sợ lại được chôn vỉa đường. Ông nhiêu Tiêm cũng cáu:
Cho ngay rằng chôn vệ đường! Anh em mình cứ đi.
Bà hàng không thèm nói nữa. Bà chỉ bĩu cái môi ra một chút. Và cái mặt bà vác lên. Ghét cái tính hay cà khịa của ông nhiêu Tiêm, chúng tôi không ai nói nửa lời. Tôi rất bực mình. Sao ông ấy cứ muốn gây ác cảm với thiên hạ làm gì vậy? Ông vác đòn càn đi trước. Ba chúng tôi cúi gằm mặt, theo.
Ông hiểu: chúng tôi gắt với ông chăng? Ông vừa đi vừa lẩm bẩm.
Mẹ kiếp! Dọa! Dọa thì ông cũng không sợ. Lòe thằng nào chứ lòe thế nào được ông. Tôi hỏi:
Ở làng ấy có cái gì mà chúng nó bảo: chúng ta không dám đến?
Ông cười nhạt:
À! Cả làng nó chỉ có đầu, có đuôi mà không có khúc giữa.
Thế là cái gì?
Thấy tôi ngờ nghệch, ông nhiêu Tiêm cười khanh khách. Chú cu Xiêng cắt nghĩa:
Chuyện phường chèo bảo…Đầu trộm đuôi cướp. Khúc giữa làm gì có? Đến lượt tôi cười vuốt đuôi. Nhưng cười xong tôi bảo:
Thế thì bố ai dám gặt cho chúng nó! Gặt xong công chúng nó không giả, chúng nó lại cho một nhát dao thì được theo ông bà.
Ông nhiêu Tiêm nhạo ngay:
Vợ mày còn trẻ lắm hay sao mà mày tiếc đời đến thế? Cũng đòi làm con giai! Tao ấy à? Xin cho ngay là quỷ sứ!… Kẻ cướp thì đây còn cho là xoàng!….
Chập choạng tối thì chúng tôi đến làng Mai. Đường vắng ngắt. Có một vẻ gì lạnh lẽo đến làm người ta rờn rợn như khí áp lưỡi dao cạo sắc lên trên gáy. Văng vẳng những tiếng khóc tỉ ti bay theo gió chiều.
Chỗ chúng tôi dừng lại là một cái chợ. Những quán gianh vắng ngắt xơ rơ như những con gà xù lông ra, ngủ ròm. Những con gà quái gở! Tôi đột nhiên thấy rợn. Có lẽ cả ông xã Mịch và chú cu Xiêng cũng vậy, họ đi sát vào tôi. Riêng có ông nhiêu Tiêm bình tĩnh lắm. Ông ngồi phịch xuống:
– Làng Mai đây rôi. Quan nào muốn bứt đầu lão thì ra đây!
Ông cười the thé. Tiếng cười nghe ghê rợn quá. Tôi nhìn tròng trọc vào cái bụi tre tối om bên đường… Ồ! Cái gì thế vậy? Tóc gáy tôi dựng ngược. Chân tay tôi bủn rủn. Trời ơi! Có một bóng người…có một người…từ bụi tre đen ngòm đi ra. Vụt một cái, hắn đã sừng sững ngay trước mặt tôi, như mọc từ đất lên. Tôi hốt hoảng quát to:
– Ai thế?
Một thứ tiếng rất nhẹ nhàng đáp lại:
– Tôi đây mà. Các ông đi gặt hẳn?
Đó là một người con gái. Tuy giời tối, chẳng trông rõ mặt, nhưng nghe nói là đủ biết. Tôi hơi yên lòng.
Bốn người đàn ông khỏe mạnh không có lý gì lại sợ một con đàn bà. Ông nhiêu Tiêm hỏi:
Mợ thuê gặt à?
Vâng, các ông chưa gặt cho ai thì về nhà cháu nghỉ rồi sáng mai gặt giùm cho cháu.
Được, nhưng mợ cho chúng tôi thế nào?
Người đàn bà ngần ngừ một chút rồi bảo:
Các ông đã gặt ở các nơi thì các ông biết đấy. Các ông định thế nào, cứ cho nhà cháu biết. Các ông định lấy mỗi công gặt là bao nhiêu?
Mợ cứ cho một đồng.
Một đồng thì đắt quá
Chúng tôi gặt mấy nơi đều thế cả.
Làm gì đến.
Sốt ruột, chú cu Xiêng hỏi phắt:
Thế mợ cho bao nhiêu?
Tám hào.
Tôi nghĩ bụng: ông nhiêu Tiêm hớ rồi. Chắc công gặt ở đây cao lắm. Đáng nhẽ ông phải nói đồng rưỡi hai đồng. Có lẽ ông nhiêu Tiêm cũng nghĩ như tôi vậy. Ông giao hẹn:
Tôi nói cho mợ thế này này: chúng tôi gặt thì chỉ biết gặt thôi chứ không biết đập, giũ: miễn là làm sao cắt được lúa, bó lại quẩy về nhà là được; tối đến, chúng tôi chỉ buông xuôi cái đòn càn là xong việc.
Đó là một cách để mà vòi đấy. Tôi dẫu chưa gặt ở đây nhưng cũng đã từng nghe người ta nói: cái lệ ở các nơi, thóc lên cót rồi mới có thể gọi là xong việc; mới buông xuôi cái đòn càn đã đòi lấy tiền của người ta sao được? Ấy thế mà người đàn bà cũng chịu:
Vâng, thì các ông cứ làm sao lôi được lúa về nhà cho cháu là được.
Ồ! Nhưng mợ vẫn phải cho một đồng.
Ông nói một đồng, chẳng lẽ ông lấy cả một đồng.
Mợ đã nói thế thì chúng tôi xin bớt đi một hào. Cứ chín hào một công, chẳng còn phải nói đi nói lại.
Vâng, thì mời các ông về nhà.
Chúng tôi đi theo thị. Qua một cái ngõ sâu hoăm hoắm, chúng tôi đến một nếp nhà khá to, có tường hoa sân gạch. Người đàn bà đánh diêm châm đèn. Ngọn đèn dầu leo lét. Vẻ vắng lặng lại làm tôi sinh ngờ. Bởi trong cái nhà ngói rộng như cái đình, chỉ có mỗi một người đàn bà ấy. Không còn ai nữa. Ở một đầu nhà, một lá màn buông sẵn. Một mùi gì là lạ. Cái khí lạnh ở ngoài đường lúc nãy, chưa vào đâu với cái lạnh trong căn nhà hoang vắng này.
Người đàn bà biến đi đâu một lát. Rồi y lại hiện ra. Bây giờ tôi mới có thì giờ nhìn rõ. Y còn trẻ lắm. Mặt đẹp nhưng xương xương, lành lạnh. Một cái khăn vuông đen chùm gần hết trán. Cái khăn vuông ấy hắt bóng tối lên làn da xanh. Thú thật, trông cái mặt ấy, tôi không ưa tí nào. Không hiểu sao, tôi thấy nó không ra mặt người. Nó là giống ma quái gì. Bởi vậy tôi giật mình khi người đàn bà bước thẳng lại phía tôi và bảo:
Bác còn trẻ nhất, chịu khó ra ngoài này, tôi mượn. Tôi lưỡng lự, ông nhiêu Tiêm dụ:
Kìa! Ra đi!
Tôi đi theo y mà trống ngực đập thình thịch. Y đưa tôi ra đầu chái. Cạnh đấy là một cái ao, nước đen ngòm ngòm. Y biến vào một cái nhà tối như hũ nút. Tôi đứng đợi ở ngoài, không dám vào. Bỗng y lại chui ra, tay cầm một vật gì. Nhờ có ánh ngọn đèn con để ở đầu chái, tôi nhận ra một con dao nhọn. Thứ dao chọc tiết lợn. Tôi không động đậy, nhưng trong lòng bối rối. Y bình tĩnh bảo:
– Bác cắt tiết giùm tôi con gà.
Tôi hoàn hồn. Nhưng giết gà để làm cơm thợ gặt? Sự này cũng lạ. Bàn tay tôi nắm con dao cứa trên cái cổ con gà, run rẩy. Con gà hé một mắt ra, chừng chừng nhìn tôi. Người thiếu phụ, cầm chân gà, chúm đôi môi ra một cách sầu não lắm. Ơ! Sao lại thế? Tôi vụt nghĩ đến những chuyện yêu tinh làm thịt con. Và tôi sinh bàng hoàng. Cái cổ gà giãy trong tay tôi như một khúc rắn. Tôi kinh sợ rụt ngay tay lại. Người thiếu phụ mở to đôi mắt trắng dã nhìn tôi, rồi bảo:
– Thôi được rồi. Bác về nhà mà nghỉ.
Tôi nhẹ lâng cả người. Về đến nhà, tôi muốn kể những điều mắt thấy với ba người họ, nhưng sợ họ cười, lại thôi.
Chừng một giờ sau, người đàn bà bưng về một mâm cơm. Mâm đồng tử tế, thức ăn toàn gà luộc. Lại có cả hai chai rượu.
– Mời các ông xơi rượu rồi ăn cơm. Xong đâu vào đấy, nhà cháu còn nhờ các ông việc này.
Ông xã Mịch và chú cu Xiêng nhìn nhau ra ý hỏi: sao ở đây người ta lại quý thợ đến thế? Tôi thì tuy không phải ngạc nhiên, nhưng vẫn còn thắc mắc. Duy có ông nhiêu Tiêm thấy rượu thì mừng ra mặt, nhỏm ngay dậy, bảo:
– Mợ đã cho, anh em ta đi uống rượu!
Trong khi chúng tôi ăn uống, người đàn bà tháo tất cả những cánh cửa nhà, hạ xuống. Lại là một sự kì dị nữa? Y tháo hết cánh cửa ra làm gì?
Ăn uống xong, ông nhiêu Tiêm mặt đỏ gay, gọi chủ nhà bảo:
Bây giờ chúng tôi no, say cả rồi. Mợ định bảo chúng tôi làm gì thì bảo đi. Tôi hồi hộp. Người thiếu phụ đứng trong nhà nói với ra:
Mời các ông vào trong này.
Ông nhiêu Tiêm đứng dậy, gật chúng tôi, cùng vào. Tôi gần chết khiếp, bởi lá màn đã vén lên. Trên bộ ghế nhựa, nằm duỗi dài ba cái xác, một cái đàn bà, hai cái đàn ông, chân tay xám như gio, má hõm, lỗ mắt sâu hoắm vào. Ông xã Mịch rú lên:
– Giời ơi! Sao thế này?
Và cả bốn chúng tôi, người nọ bám vào người kia. Người đàn bà vội sụp ngay xuống, lạy chúng tôi và rưng rức khóc:
Đây là bố chồng tôi, mẹ chồng tôi, với chồng tôi. Chẳng may Giời bắt tội chết cả, không ai dám chôn. Tôi đàn bàn, con gái, lại có một mình. Các ông đã đến đây, các ông ghép qua loa vào làm áo quan.
Tiểu thuyết thứ Bảy.
Số 450, ngày 27-2-1943